Chùa Phụng Sơn (chùa Gò), ngôi cổ tự ở quận 11, Sài Gòn

 

Chùa Phụng Sơn, tên chữ là Phụng Sơn tự, còn có tên là chùa Gò là một ngôi cổ tự theo Phật giáo phát triển (Phật giáo Bắc tông, Phật giáo đại thừa) tại quận 11 thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn).

Chùa Phụng Sơn tọa lạc tại số 1408 đường Ba Tháng Hai, thuộc phường 2, quận 11, Sài Gòn. Ngôi cổ tự này đã được xếp hạng là “di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia” vào tháng 11 năm 1988.

Chùa Phụng Sơn được thiền sư Liễu Thông (1754-1840) tạo lập vào đầu thế kỷ XIX, dưới triều vua Gia Long, trên nền của một ngôi chùa Chân Lạp cổ, nằm trên một đồi nhỏ, bao quanh là ao Bàu Chuông có trồng sen. Tương truyền, trên đường đi vân du vào phủ Gia Định, thiền sư Liễu Thông trông thấy cảnh trí nơi này thanh tịnh, thích hợp cho việc tu hành, nên dựng một am tranh tại đây, và được người dân quanh vùng gọi bằng một cái tên dân dã là chùa Gò. Một hôm, có một con chim phụng đến đậu trên cây ngô đồng trước am và cất tiếng gáy, thiền sư cho rằng đó là điềm lành, nên đặt tên chùa là Phụng Sơn tự, có nghĩa chùa trên núi có chim phụng.

Năm 1904, am lá được xây cất lại, và kể từ đó cho đến nay, chùa đã trải qua nhiều lần trùng tu. Hiện tại, chùa Phụng Sơn vẫn đang trong quá trình xây dựng thêm một số công trình. Tuy được trùng tu lại vài lần, nhưng chùa vẫn theo kiến trúc cổ với bộ khung gỗ và mái ngói âm dương.

Chùa Phụng Sơn xây theo kiểu chữ “quốc” (國), có hàng hiên chạy quanh bốn phía. Bên trong chùa chia ra hai khu rõ rệt, phía trước là chính điện, cách một sân lộ thiên, phía sau là nhà giảng. Hai bên sân lộ thiên có Đông lang và Tây lang, nối liền hai nơi. Sân lộ thiên có hòn non bộ, tượng Quan Âm và cây cảnh, nhờ có khoảng sân này nên chùa được thoáng đãng, sáng sủa. Nơi chính điện, các cột đều làm bằng gỗ tốt, lâu ngày đã trở nên đen bóng.

Chùa Phụng Sơn thờ kiểu “tiền Phật, hậu Tổ”. Điện Phật có nhiều tượng Phật xưa bằng gỗ, thiếp vàng chạm trổ mỹ thuật. Tổng cộng chùa có khoảng 40 pho tượng thờ. Nhiều tượng thờ do nhóm thợ từ Sa Đéc, do hòa thượng Huệ Minh mời đến chùa để tạo tác vào những năm đầu thế kỷ XX. Có nhiều pho tượng quý như bộ Di Đà Tam Tôn, bộ Ngũ Hiền thượng kỳ thú, pho tượng Phật bằng đá, tượng Tiêu Diện…

Khu đất chùa Phụng Sơn tọa lạc là một di tích khảo cổ học. Tài liệu của Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (thành phố Hồ Chí Minh) cho biết vào các năm 1988 và 1991, các nhà khảo cổ học đã tìm được những mặt người bằng đất nung, đồ gốm… thuộc văn hóa Óc Eo. Ở đây cũng đã tìm thấy một tượng Phật bằng đồng theo phong cách Thái Lan…

Cổng tam quan chùa Phụng Sơn

Cổng chùa chỗ soát vé gửi xe (5.000 đ/ xe)

Chánh điện chùa Phụng Sơn

Tuy được trùng tu lại vài lần, nhưng chùa vẫn theo kiến trúc cổ với bộ khung gỗ và mái ngói âm dương.

Chùa Phụng Sơn là một trong những ngôi chùa cổ, còn in đậm nét sự có mặt của tín ngưỡng dân gian, Như bên hành lang chánh điện thờ Linh Sơn Thánh Mẫu, một trong những vị nữ thần được tôn kính và thờ tự phổ biến ở miền Nam Việt Nam.

Linh Sơn Thánh Mẫu (còn gọi là Bà Đen) là tín ngưỡng khởi phát tại vùng đất Tây Ninh. Bà là một vị nữ thần được tổng hợp từ nhiều nguồn gốc với những huyền tích khác nhau.

Trong văn hóa Hindu đó là tín ngưỡng thờ Mariamman, Kali (Ấn Độ, Indonesia), Niềng Khmau (Campuchia). Linh Sơn Thánh Mẫu đã được Việt hóa bằng câu chuyện về người con gái mặt đen tên Lý Thị Thiên Hương, được vua Bảo Đại ban sắc phong vào năm Bảo Đại thứ 10 (1935) với mỹ tự là “Dực Bảo Trung Hưng Linh Phù chi thần”.

Linh Sơn Thánh Mẫu có mặt trong tín ngưỡng dân gian và Phật giáo. Ngoài điện thờ chính tại núi Bà Đen và miếu thờ tại Trảng Bàng, thì Bà được phối thờ trong các chùa ở Tây Ninh với vai trò là một vị hộ trì Tam Bảo, ban thờ được đặt phía sau ban thờ Phật và đối diện với ban thờ Tổ theo kiểu “Tiền Phật hậu Thánh”. Cũng có chùa thờ Bà nơi gian phải của chánh điện hoặc có miếu thờ riêng cùng với Ngũ Hành Nương Nương, Chúa Xứ Thánh Mẫu, Diêu Trì Địa Mẫu,… trong khuôn viên chùa.

Bên trong chánh điện

Sân lộ thiên với hòn non bộ, tượng Quan Âm và cây cảnh, nhờ có khoảng sân này nên chùa được thoáng đãng, sáng sủa. Đây là thiết kế đặc biệt giúp chia chánh điện ở phía trước và nhà giảng phía sau. 

Dấu vết của quá trình sinh sống và cộng cư của nhiều dân tộc tại vùng đất này còn được thể hiện qua hình ảnh ngôi miếu nhỏ thờ Ông Tà (Neak Tà, Neak Ta) trong khuôn viên chùa, bên những ngôi tháp Tổ. Đó là dạng tín ngưỡng, là một nét văn hóa phổ biến của cư dân Khmer.

“Neak” trong tiếng Khmer có nghĩa là “người” nói chung, còn “Ta” là đàn ông đứng tuổi, Neak Ta thường được gọi là ông Tà, là vị thần trông coi từng khu vực lớn, nhỏ, từ thửa ruộng đến địa phận phum sóc, bảo hộ cuộc sống và sức khỏe cho con người. Theo quan niệm của người Khmer, Neak Ta là một vị nam thần đứng tuổi, có trách nhiệm bảo hộ con người và đất đai trong một khu vực, tương tự như tín ngưỡng Thành Hoàng của người Việt.

Ảnh: La Ngọc Trúc

Tượng Phật trong khuôn viên chùa

Một hồ nước nhỏ

Khu vực đang được cải tạo

Cây kiểng trong chùa

Năm 1909, nhà sư Huệ Minh đã đem giống mai có nguồn gốc từ chùa Cây Mai (còn gọi là Mai Sơn tự, chùa núi Mai, Mai Khâu tự, chùa gò Mai; chùa tọa lạc trên gò Mai, thuộc Gia Định xưa; trong thời Pháp thuộc, ngôi chùa đã bị tháo gỡ, chỉ còn lại gò Mai gần như phẳng lì, nằm ở góc đường Hồng Bàng – Nguyễn Thị Nhỏ, thuộc phường 16, quận 11 ngày nay) về trồng ở chùa. Đây là giống mai quý hiếm đã được nhiều nhà thơ thuộc nhóm Bạch Mai thi xã, như Trịnh Hoài Đức, Nguyễn Thông, Tôn Thọ Tường… ca ngợi, và cho đến nay chỉ còn lại một cây mai già ở bên hông chùa.

Các cây khác

*** Ảnh chụp bằng điện thoại iPhone 7, chỉnh sửa qua ứng dụng (app) PS Express.

*** Bài viết có sử dụng tư liệu được tổng hợp và biên tập lại từ nhiều nguồn trên Internet, mang giá trị tham khảo.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *